Đó là những khó khăn trở lực lớn nhất đối với những người dân phải di rời đến nơi ở mới
Chính phủ đã chỉ đạo thu hồi một phần diện tích đất của nông, lâm trường chưa dùng hết, hoặc dùng không hiệu quả để cấp cho người dân nhằm đáp ứng đất sinh sản. Nếu dòng họ có nhiều người di chuyển đến nơi ở mới, ắt có sức thu hút anh em trong dòng họ đi theo với quan niệm “Ở thì cùng ở, đi thì cùng đi”. Nhóm tham mưu đánh giá tác động môi trường và tầng lớp (nhóm SEIA), thuộc liên hợp các hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế vừa tiến hành khảo sát khu tái định cư thủy điện A Lưới cho 106 hộ dân tại thôn Cân Tôm, xã Hồng Thượng, huyện A Lưới.
Công trình thủy điện A Lưới có tổng vốn đầu tư là 3. Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, bây giờ quỹ đất gần như không còn nên để giải quyết đất ở, đất sản xuất cho bà con là việc không đơn giản.
Trước mắt, cần sớm thu hồi đất của các nông, lâm trường dùng kém hiệu quả, hoặc bỏ hoang để giải quyết đất canh tác cho bà con vùng miền núi. Đây cũng là nhân tố tự nhiên của sự phát triển. Hiện người dân làm thuần nông, nuôi con lợn, con gà, trồng cây lúa, cây ngô hoạ may thì đủ lương thực, còn khi dự trồng cây công nghiệp như cao su thì biết bao nhiêu năm mới được thu hoạch, trong những năm chờ cao su có mủ để phá hoang thì họ lấy gì để sống.
Thứ hai là do nhận thức của bà con còn hạn chế nên việc tiếp cận với cái mới cũng khó khăn hơn. Phải tạo ra phương thức ăn nhập để người dân có đất sinh sản.
Trong quá trình giám sát của các Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng Dân tộc cũng kiến nghị tới các bộ, ngành hệ trọng và các tỉnh phải giải quyết đất sản xuất cho người dân. Nhưng qua thực tiễn, ở nhiều nơi, quốc gia vừa giải quyết chưa ráo mực, bà con đã lại chuyển cho người khác, sau đó lại kêu là không có đất.
Ông có đánh giá gì trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi nghề ở các địa phương? Trong những năm qua, bà con vùng miền núi đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sinh sản, nhiều địa phương cũng rất quan tâm, nhưng chuyển biến còn rất chậm.
Có chỗ đáp ứng được đất sinh sản, nhưng lại không đáp ứng được đất ở; có chỗ đáp ứng được nơi ở, đất ở nhưng không đáp ứng được đất sản xuất, vì ở những nơi đó đất bạc màu.
Cả khu tái định cư có khoảng 12 ha diện tích gieo cấy lúa nước, nhưng để gieo được những mầm mạ, người dân đã phải khó nhọc, mất rất nhiều công sức cải tạo, đào bốc đá chất lên bờ, trong khi năng suất rất thấp. Thứ hai là ở nhiều nơi chính quyền đã tạo điều kiện cho bà con tự san sớt, tự nhượng (cho nhau mượn theo thời vụ) đất sản xuất.
Nhà nước đặt ra vấn đề giảm nghèo nhanh nhưng phải bền vững, theo tôi khẩu hiệu này không thích hợp với thực tại. Để nâng cao năng suất, đồng bào dân tộc thiểu số cần được tiếp cận nhiều hơn nữa với khoa học kỹ thuật đương đại. Nếu không giải quyết được vấn đề thu nhập cho người lao động thì họ lại vào rừng, phá rừng lấy đất sản xuất, đây là vấn đề rất đáng lo ngại.
Về việc này, có nơi làm tốt, nhưng cũng có nơi làm không được. Vậy nói là giảm nghèo nhanh và bền vững là khó. Bên cạnh đó, cần có sự tương trợ của quốc gia để tạo điều kiện tốt về cơ chế cho các doanh nghiệp tiếp kiến xâm nhập vào vùng khó khăn, vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa để làm dịch vụ đầu vào, đầu ra. Ổn định đất ở, đất sinh sản là nhu cầu tất yếu của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao.
Góc độ giảm nghèo bền vững tôi thấy có nhẽ ở tầm vĩ mô, vi mô đều phải đổi thay cách làm, phải có mô hình
Do vậy khi giải quyết vấn đề đất ở, đất sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số cần có những điều kiện buộc ràng như: Nhà nước đã giải quyết cho những hộ thiếu đất sản xuất, phải sử dụng sau 10 năm mới được chuyển nhượng.
Hay những mô hình nuôi gia cầm theo hướng sản xuất hàng hóa phải tuân thủ và thực hành tốt dịch vụ thú y, đầu vào, đầu ra cho sản phẩm. Chuyển đổi nghề cho hộ dân thiếu đất sinh sản Theo ông, đâu là duyên cớ khiến những năm trước đây một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số thiên cư tự do? Do điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, bà con thường hàm ở những nơi có độ dốc lớn, bị chia cắt mạnh.
Sau đó họ lại chuyển di tiếp vào trong rừng, và lấy lý do là không có đất ở, đất sản xuất, đấu gây áp lực cho chính quyền phải giải quyết đất. Những địa phương thực thụ khó khăn, không đủ điều kiện đáp ứng cho người dân định canh, định cư thì Nhà nước cần điều hòa nguồn lực đầu tư để người dân yên tâm cần lao sản xuất.
Trong khi đó ở các tỉnh miền núi phía Bắc, việc chăn nuôi đàn đại gia súc, gia cầm thường xảy ra dịch bệnh lớn. Xin trân trọng cảm ơn ông! Nguyễn Viết Tôn (thực hành). 234 tỷ đồng, công suất lắp máy 170MW (gồm 2 tổ máy), sản lượng điện bình quân hàng năm ước đạt 686,5 triệu KWh. Đầu tiên công tác tuyên truyền của chính quyền phải mạnh mẽ hơn nữa, tháo gỡ kịp thời những khó khăn của người dân, nhu cầu đất ở, đất sinh sản, nước sinh hoạt phải được đáp ứng… quốc gia tuy đã có chính sách tương trợ, nhưng rất nhỏ giọt.
Tuy nhiên khi giải quyết đất ở, đất sinh sản, tái định cư cho người dân với đích là đến nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ thì thực tại lại không đạt đề nghị. Về vấn đề này, Hội đồng dân tộc và các địa biểu Quốc hội cũng quan hoài.
Ông có nhận xét gì khi có ý kiến cho rằng đích di dân tái định cư đến nơi ở mới phải tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ, nhưng thực tế chưa hẳn là vậy? Trong Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XIII vừa qua, Quốc hội cũng đã đàm đạo rất kỹ về Luật Đất đai (sửa đổi).
Từ đó tạo ra những tiền lệ không tốt. Bà con cũng cần đổi thay cách làm ăn tự cung, tự cấp sang cơ chế thị trường thì mới có thể giảm nghèo bền vững. Thứ nhất là nhiều nơi tuy có triển khai nhưng mới chỉ dừng lại ở mô hình.
Trong khi đó, dân số tăng nhanh trong những năm gần đây nên đất ở, đất sản xuất càng ngày càng thu hẹp và bị chi phối nhiều. Từ đó bà con yên tâm sản xuất, tạo ra cách làm ăn mới, bền vững, giảm nghèo nhanh hơn.
Chẳng hạn như ở huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế khi tái định cư thủy điện, Ban quản lý thủy điện A Lưới tạo mặt bằng bằng cách dùng cơ giới để san gạt, nhưng mặt bằng đó không thể khai phá sinh sản được vì phía dưới toàn đá.
Để tránh người dân di trú tự do, việc giám sát cơ sở phải được đặt lên hàng đầu, ông có quan điểm gì về vấn đề này? Di dân tự do cũng có nhiều căn nguyên sâu xa. Điện năng phát ra bổ sung cho nguồn điện lưới nhà nước bằng hai đường dây truyền tải về trạm 220kv Huế (tỉnh Thừa Thiên - Huế) dài 28km và Đông Hà (Quảng Trị) dài 84km.
Có nơi có đất sản xuất nhưng lại không có nước tưới để phục vụ sản xuất, hay làm thủy lợi, trong đó có các tỉnh Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Yên Bái… có đất canh tác nhưng lại không thể làm đồng được vì thiếu nước sinh sản. Theo tôi cần phải có sự chuyển đổi, kết liên được giữa Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học và doanh nghiệp.
Làm sao phải chuyển đổi được nhận thức cũ, và có tư duy mới là phải sinh sản hàng hóa, phục vụ cho chế biến xuất khẩu.
Trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) vừa được bàn thảo tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội Khóa XIII vừa qua, nhiều đại biểu cũng đưa ra ý kiến rằng quốc gia cần tính đến đất ở, đất sinh sản cho đồng bào dân tộc thiểu số ổn định cuộc sống
Những mô hình đã đem lại thành công như nuôi cá nước lã, chăn nuôi đàn đại gia súc… đòi hỏi phải là những người đam mê, người chăn nuôi phải có vốn lớn mới theo đuổi được vì mức đầu tư cao để mua như thức ăn, lùng thị trường… thì mới có thể thành công.
Ảnh: Viết Tôn Để giảm nghèo vững bền cho đồng bào dân tộc thiểu số, dưới giác độ đầu tư nguồn nhân công, các địa phương đã triển khai được những gì, thưa ông? Giảm nghèo bền vững hiện giờ là câu hỏi lớn và cũng là vấn đề rất khó. Trong quá trình giám sát thu hồi đất nông, lâm trường, chính quyền các tỉnh cần giải quyết như thế nào cho hài hòa.
Có 106 hộ dân trong vùng phải di dời để xây dựng công trình thủy điện A Lưới.
Nếu cứ tự cung, tự cấp thì không giảm nghèo bền vững được. Ảnh: Viết Tôn Vậy với Tây Nguyên thì sao, thưa ông? Trong quá trình giám sát của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, chúng tôi thấy ở các tỉnh Tây Nguyên, đồng bào căn bản là tốt, nhưng cũng có những nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, có những thời điểm bị chi phối, lợi dụng chính sách của quốc gia, được chính quyền cấp đất nhưng lại nhượng cho người khác.
Công tác quản lý cần liền để kịp thời phát hiện, ngăn chặn di dân tự do. Nhìn ở góc độ Nhà nước, khi thu hồi đất để xây dựng những công trình công cộng, phúc lợi từng lớp, người dân luôn vui lòng ủng hộ chủ trương lớn. Cơ chế giám sát của các tổ chức phải chém đẹp để khi thu hồi đất đáp ứng được mục tiêu đề ra, tránh việc khi đã thu hồi xong nhưng lại để dự án treo.
Đây là nguyên do chính khiến người dân thiên cư tự do. Nhưng cũng có cái khó là nhiều địa phương không còn quỹ đất. Tôi xin nhắc lại, hiệu quả nhất vẫn là liên lết 4 nhà, phải có doanh nghiệp, nhà khoa học có vai trò lớn sẽ xúc tiến tiến độ nhanh hơn, tạo ra cách làm vững bền có sự chỉ dẫn của nhà khoa học, doanh nghiệp giúp nông gia tiếp cận cái mới.
Vậy theo ông, đâu là giải pháp? Mỗi địa phương lại có những giải pháp riêng, nhưng cũng có tỉnh “bó tay” vì không có quỹ đất, đó là cái khó khăn nhất bây chừ. Vì khi áp dụng khoa học kỹ thuật thì phải tuân thủ những nhân tố, quy trình mang tính khoa học, nhưng người dân lại không tuân thủ nghiêm nhặt, bởi thế có những mô hình lúc triển khai rất tốt nhưng không nhân rộng ra được mà chỉ dừng lại ở mô hình mà thôi.
Còn nhiều vấn đề mới nảy, nan giải cần giải quyết theo nhiều cách khác nhau. Nhiều vấn đề được cảnh báo và rút kinh nghiệm trong quá trình di dân tái định cư, không chỉ ở A Lưới mà còn nhiều địa phương khác rưa rứa cũng vậy.
Sau khi làm thử nghiệm mô hình thành công, các địa phương lại không nhân rộng mô hình để phổ biến, do đó hiệu quả không cao. Mặt khác, ở những nơi có địa hình khó khăn, bị thiên tai hạn hán, đất sản xuất bị rửa trôi, bạc màu trong khi việc tái hiện đất của người dân còn hạn chế. Muốn tồn tại, người dân phải được chuyển đổi nghề, hoặc buộc lòng phải di chuyển đi nơi khác.
Từ những khó khăn đó mà một bộ phận người dân các tỉnh phía Bắc đã di dân tìm đến nơi ở mới có điều kiện sống tốt hơn, do đất đai ở nơi ở mới mầu mỡ, có nước sinh sản… Một lý do khác là tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số hay ở theo cộng đồng, theo dòng họ, họ tộc.
Ở những địa phương thực sự không còn quỹ đất thì phải chuyển đổi nghề cho người dân. Cá biệt, ở một số tỉnh miền núi phía Bắc, đất đai kiệt, đặc biệt như Hà Giang hay các huyện núi đá thì vấn đề đất sản xuất rất khó khăn, bà con khó phát triển sản xuất. Tức là chính quyền địa phương phải ứng dụng nhiều cách để tạo điều kiện cho người dân có việc làm, tăng thu nhập.