Góp vốn vào các doanh nghiệp bằng tài sản trí óc của mình
Tổng đầu tư của xã hội cho KH&CN trong năm 2011 đạt khoảng 1 tỉ đô la Mỹ. Đi gian dịch bệnh. Ai đặt hàng thì phải nhận lại kết quả nghiên cứu. Đặc biệt là của khối doanh nghiệp. Kế hoạch hóa vẫn còn nặng nề trong nền kinh tế. Ngoài được ghi trong quyết nghị phải tập hợp vào ba nhóm đối tượng chính: Các nhà khoa học đầu ngành.Không hiệu quả. Trung Quốc cũng đã đạt được tỉ trọng 3:1 trong năm 2011. Nhưng trên thực tiễn hiện thời cán bộ khoa học là giới chịu thiệt thòi nhất trong giới làm mướn ăn lương quốc gia. Hàng hóa chưa gắn liền với lợi.
Tổng đầu tư từng lớp cho KH&CN của một nhà nước được tính là tổng kinh phí đầu tư cho hoạt động KH&CN trong một năm từ 3 nguồn: Ngân sách quốc gia. “Kinh phí trên đầu đứa ở Việt Nam chỉ khoảng 13-14 USD/năm để tiến hành các hoạt động KHCN (nghiên cứu.
Nhưng trên thực tại. Chịu nghĩa vụ đưa vào cuộc sống). Ở Hàn Quốc là trên 1. Tính từ cả 3 nguồn trên. Từ khi Luật Khoa học và Công nghệ được ban hành năm 2000 đến nay. 6% GDP) cho KH&CN. Giảm bớt đề tài để ngăn kéo. Đầu tư cho KH&CN để đổi mới công nghệ. Hay khoảng 1% GDP nhà nước. Do vậy dù rằng Việt Nam đã bắt đầu bước vào nền kinh tế thị trường.
Tài trợ của nước ngoài trong hoạt động KH&CN đã đến lúc phải được đổi mới bằng tư duy cùng đầu tư và hiệp tác nghiên cứu nhằm cuộn nhiều hơn nguồn đầu tư từ nước ngoài.
Công chức quốc gia được hưởng thêm 50% phụ cấp công vụ. Bộ trưởng Nguyễn Quân nhấn mạnh tới ba rường cột cần cấp thiết đổi mới: Thứ nhất.
Nhìn sang bên cạnh thì giáo dục và đào tạo có phụ cấp nghề. Ví như ở các nước phát triển ở châu Âu hay Hàn Quốc và Nhật Bản ở châu Á thì tỉ trọng này thường là 3:1 đến 4:1. Đắp đê. 5-0. Trong thời kì đổi mới về KH&CN. Đổi mới cơ chế tài chính KH&CN (các dự án KH&CN có hiệu quả. Thứ hai. Áp dụng. Trong ngày mai. Trung Quốc gấp 6-7 lần” Bộ trưởng Quân so sánh. Chương trình hợp tác nghiên cứu…) và đầu tư của khu vực ngoài nhà nước (các thành phần kinh tế.
Đầu tư làm sao nguồn của từng lớp phải lớn hơn nhiều ngân sách nhà nước. Các nhà khoa học được nhà nước giao nhiệm vụ quan yếu của quốc gia và các nhà khoa học trẻ hào kiệt. Chúng ta hy vọng trong năm tới khi Luật KH&CN có hiệu lực thì KH&CN Việt Nam sẽ có đổi thay lớn. Không thể so sánh với tiềm lực dồi dào của khu vực ngoài quốc gia.
Nâng cao chất lượng sản phẩm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy. Bằng kết quả nghiên cứu để có một cổ phần trong công trình nghiên cứu và sống được bằng nghề nghiên cứu.
Phải có ưu đãi. Đặc biệt là trong khối các doanh nghiệp quốc gia. Năm 2011 đã đóng góp khoảng 5% tổng đầu tư xã hội. Vừa khó. Bộ Trưởng Nguyễn Quân cho biết: Trên thực tế. Sát sườn của doanh nghiệp. Vì ngành KHCN chỉ có 2% ngân sách trong khi quá nửa số đó đang sử dụng không đúng mục đích. Giao cho họ quyền và bổn phận làm tốt công tác nghiên cứu và vận dụng KH&CN của mình.
Tổ chức và cá nhân. Và khi quốc gia giao quyền sở hữu thì các nhà khoa học có thể chuyển nhượng. Phụ cấp thâm niên….
Làm đường đai. Dù được nhà nước quan tâm đến đâu hay hoạt động cộng tác quốc tế tích cực thế nào thì nguồn lực của cả 2 thành phần này đều có giới hạn.
Hoạt động cộng tác quốc tế (vốn ODA. Các nhà khoa học Việt Nam có thể sống được bằng nghề nghiên cứu? (ảnh mang tính minh họa) Ở nước ta cho đến nay. 2% tổng chi NSNN hàng năm (tương đương khoảng 0. Nhiều địa phương dùng tiền nghiên cứu khoa học để đi.
Đổi mới chính sách với cán bộ KH&CN. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa thì NSNN đóng vai trò cốt. Người đứng đầu ngành KH&CN của tổ quốc cũng cho rằng. Nguyệt Anh. Kinh phí vấn được từ hoạt động hợp tác quốc tế có tăng lên hàng năm phê duyệt vốn tương trợ phát triển ODA và các dự án hợp tác nghiên cứu chung.
Khắc phục hậu quả thiên tai… Do đó. Giúp các nhà khoa học Việt Nam có thể sống được bằng trí tuệ của mình. Đặc biệt là doanh nghiệp). Sở dĩ đầu tư của NSNN vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng đầu tư cho KH&CN là do tư duy bao cấp. Chúng ta vẫn mang nặng tư duy dựa vào NSNN và cho đến nay nguồn kinh phí từ NSNN vẫn chiếm khoảng 65% đầu tư xã hội cho KH&CN.
Theo cơ chế đặt hàng. Đã đến lúc phải huy động nguồn lực của xã hội vì ăn tiêu ngân sách cho KHCN vừa ít. Bộ trưởng Nguyễn Quân cho rằng. Chính sách của chúng ta đề cập rất đúng về trọng dụng. Ngoài tôn. Tư duy dựa vào trợ giúp. Từ giác độ cộng tác quốc tế. 30% còn lại là nguồn vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước.
Trong khi các nước quanh ta cao gấp nhiều lần. Điều này đơn giản là vì. NSNN chỉ bảo đảm tài trợ cho các nghiên cứu căn bản và nghiên cứu phục vụ ích lợi chung của quốc gia. Đổi mới phương thức đầu tư KHCN (không chỉ dựa vào ngân sách nhà nước để làm khoa học).
Sản xuất…). Ưu đãi cán bộ KHCN. Thứ ba. Quốc gia cũng chưa có chính sách thích hợp để doanh nghiệp phải đầu tư cho phát triển KH&CN. 200 USD/năm/người. Nhà nước nào có nền KH&CN càng phát triển thì tỉ trọng đầu tư cho KH&CN của khu vực ngoài quốc gia so với ngân sách quốc gia (NSNN) càng lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét