Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

“Nuôi con bến thực. nuôi mình bến sáng kiến mơ”.

Mệnh kim thì mài) - (Bàn tay em) hay: Dù anh biển rộng trời xa/ Cũng không bước nổi qua tà áo em - (Anh và em) Những câu lục bát như thế

“Nuôi con bến thực, nuôi mình bến mơ”

Thầy cô học sinh giỏi văn và có khiếu làm thơ bích báo. Bởi toàn nhà thơ nữ - mỗi người một tính. Bùi Kim Anh. Thế đấy. Và bây chừ Nguyễn Thị Mai không chỉ thành nhà thơ mà còn là người có duyên với những cuộc thi thơ.

Năm 1981 mẹ ốm ròng rã và đầu năm 1982 mất tiếp: Một nhà trắng những khăn xô/ Dải khăn em út bấy giờ chấm chân/ Bấy giờ đang cuối mùa xuân/ Hoa xoan lã chã từ sân ra vườn/ Nhà còn bơ gạo cắm hương/ và bơ nữa thổi bát cơm trứng gà/ Gia tài lúc mẹ đi xa/ đôi quang đứt dải. Chị khoe vui với tôi - có lần đến nơi đọc thơ mà giật mình - biểu ngữ căng đầy trong ngoài hội trường chào mừng nhà thơ Nguyễn Thị Mai.

Tưởng đơn giản nhưng hóa ra lại khá phức tạp. Nguyễn Thị Mai là cô bé vừa lọt lòng mẹ đã được bà ngoại đón về Gia Lâm nuôi.

Họp phường được 10-15 ngàn đồng/buổi. Khám cặp thấy toàn giáo án và sách vở. Trên chiếc xe đạp cà tàng. Tôi gặp nhiều nhà giáo. Nguyễn Thị Mai đi đâu cũng vậy. Mệnh. Thơ chị đi vào lòng bạn đọc. Gánh vác thiếu niên nhi đồng là ai đây? Còn nữa. Nhưng tôi thích lối viết nhẹ nhõm mà hóm hỉnh của chị: Lọt trời rơi xuống tay em/ Mệnh hỏa thì tưới. Nhiều cán bộ. Thơ lục bát của chị có nhiều bài về tình ái.

Đi xa mới hay khả năng giao thiệp. Nguyễn Thị Mai là vậy. Hỏi cho vui vậy. Hỏi để trêu bạn vậy. Ở đây. Hội khuyến học cần người thay. Nhà thuế vụ thông cảm cho đi. Hỏi đi họp có bì thư không? Có chứ. Nhà thơ Nguyễn Thị Mai đến với nhân tình thơ bằng cả tấm lòng thật tình. Thêu áo ki-mô-nô xuất khẩu. Cô gái ấy đã lập gia đình và sinh hạ được ba con gái. Đi đến với nhiều nhân tình thơ lục bát.

Nào tráng bánh cuốn đêm để sáng bán và đổi gạo. Đi với chị một lần tôi càng thêm hiểu vì sao mọi người yêu quý chị. Căn nhà dột mưa… Từ miền núi Hòa Bình. Nguyễn Thị Mai quyết thi và đi học thạc sĩ rồi về xuôi cáng đáng gia đình. Thay cho lời kết: Em thì tíu tít mưu sinh/ Nuôi con bến thực nuôi mình bến mơ. Người con gái lớn ở lại với cha và Mai cùng chị giáp mình về xuôi với mẹ.

Vừa đọc vừa buồn ngủ. 3. Hiện giờ Mai vẫn vậy. Chuẩn bị chào mừng Đại hội Mặt trận. Một câu lục bát đã cho ta chân dung Nguyễn Thị Mai - người đàn bà làm thơ thay cho lời khen. Đâu chỉ là thơ - nhiều người làm thơ hay.

Uốn tóc phụ nữ lấy tiền sinh sống. Thi sĩ Nguyễn Thị Mai trong một chuyến thực tiễn tại Mộc Châu 2. Năm 1977 chị lên dạy học ở miền núi.

Đón Xuân 2014… lo từ giờ. Nhớ có lần mang 2 cây thuốc Sông Cầu đi bán chị bị bắt.

Ngô… còn đằng sau chị chở 2 đứa con còn nhỏ. Ngộ ra mà giật mình. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là cái nghề cắt tóc. Cuộc sống đã khó khăn thì năm 1980 bố dượng mất.

Đâu chỉ là nhà thơ - nhiều thi sĩ lừng danh. Nhưng cái thành công thuần khiết tác văn chương nhiều khi không chỉ đánh giá theo giải. Rồi thấm vần điệu. Phú Thọ. Quân nhân sống ở làng mà thơ hay. Hội đồng nhân dân phường nơi cư trú. Tính hạnh cẩn thận. Lớn lên Mai đi học. Thế là cô giáo - thạc sĩ trẻ đã không nài nỉ việc gì để có tiền nuôi con và nuôi các em.

Không chỉ giới nữ thú nhận mà cánh đàn ông cũng xuýt xoa. Đọc Lục Vân Tiên cho nghe. Nào ép dép nhựa. Đằng trước là một túi đồ nghề và một túi đựng gạo. Quân số gọn nhẹ. Cả đoàn 7 người. Hỏi có được phụ cấp gì không? Có chứ.

Nào đổ thuốc lá cho quán. Thầy giáo dạy văn cấp 2 đã có ý định đào tạo bổ dưỡng cô học trò thành nhà thơ bằng cách bắt cô mỗi tuần phải sáng tác một bài thơ nộp thầy. Mai có thêm 6 đứa em tiếp theo. Vậy mà Nguyễn Thị Mai dung hòa được hết.

Cứ thế 3 mẹ con đi dạo khắp làng quê huyện Thường Tín để cắt tóc đàn ông. Có một người con gái ngoại thành Hà Nội đã sơ tán lên một làng nhỏ huyện Cẩm Khê.

Rồi mẹ tái giá. Và đây. Chị chính là Hạnh Hoa gần 20 năm với những câu chuyện gia đình trên phụ san Hạnh phúc gia đình của báo nữ giới Việt Nam.

Coi trọng. Đi xa mới biết Nguyễn Thị Mai thật giỏi giang. Bởi cuộc sống của các em lúc đó trông vào người chị. Ngày xưa đâu có sách gì. Xóm thôn. Vẫn làm việc không biết mỏi mệt. Nhà trường nợ kiền 3 tháng lương. Từ nãy cứ điện thoại các cuộc không hiểu cước phí bao lăm? Nguyễn Thị Mai đến với thơ có lẽ bắt đầu từ ngày bà ngoại chị thường kêu cô cháu gái hay chữ đọc Kiều.

Làm mành tre. Thơ thấm đượm tình con người. Đi với chị. Chị là cán bộ Mặt trận. Đúng là trăm điều hãy cứ trông vào mình ta. Đọc nhiều rồi thuộc. Trưởng ban công tác chiến trường 150 ngàn đồng/tháng. Ngồi với tôi trên xe mà chị Mai nhận liên tục điện thoại về công việc phường. Đó là câu thơ dành cho mẹ đầy thương cảm mà nhiều người thuộc: Từ ngày đưa mẹ ra đồng/ Qua hàng trầu vỏ con không dám nhìn - (Qua hàng trầu vỏ).

Chi tiết để đám nhà thơ nữ chúng tôi khỏi tốn kém. Nhà nghèo. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Uốn tóc dạo vào thời kỳ giá - lương - tiền khó khăn. Hội tụ của một cán bộ đàn bà như chị. 2 đứa em trai tòng ngũ. Đổ gạch bê tông. Trong giọng điệu. Giản dị như chất vốn có của ca dao mà vẫn đương đại trong hình ảnh.

Nhà đông chị em.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét